Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2020

  

Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. Theo đó, các quyền này có thể được chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân khác không phải là người sáng tạo hay sở hữu các đối tượng đó.



Chuyển giao quyền quyền sở hữu công nghiệp bao gồm hai loại, đó là “chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp” và “chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp”.

Chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Tức, bên chuyển nhượng sẽ phải chuyển giao toàn bộ quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp sang cho bên nhận chuyển nhượng và sau khi hai bên hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng sẽ có toàn quyền quyết định đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đó.

Tuy nhiên, khi chuyển nhượng, các bên cần lưu ý những vấn đề như sau: (i) Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chỉ được chuyển nhượng quyền của mình trong phạm vi được bảo hộ; (ii) Quyền đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng do đối tượng này mang tính vật lý và không thể dịch chuyển; (iii) Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó; (iv) Việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu và; (v) Quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó.

Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình. Khác với chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng chỉ là chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp tạm thời trao quyền cho tổ chức, cá nhân khác được sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mà mình sở hữu trong một thời hạn nhất định. Tương tự như chuyển nhượng quyền, trường hợp chuyển quyền sử dụng cũng có những hạn chế nhất định chẳng hạn như: (i) Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý, tên thương mại không được chuyển giao; (ii) Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó; (iii) Bên được chuyển quyền không được ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, tuy nhiên nếu bên chuyển quyền cho phép thì việc ký kết hợp đồng thứ cấp vẫn có thể thực hiện; (iv) Bên được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có nghĩa vụ ghi chỉ dẫn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá về việc hàng hoá đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu; (v) Bên được chuyển quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền có nghĩa vụ sử dụng sáng chế như chủ sở hữu sáng chế.

Theo những phân tích trên có thể thấy, các bên cần phải xác định rõ mục đích, phạm vi và đối tượng muốn chuyển giao trước để lựa chọn hình thức phù hợp với mong muốn của các bên, và sau đó tiến hành ký kết các thoả thuận chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp, hoặc thoả thuận chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua sự hỗ trợ của các luật sư chuyên về sở hữu trí tuệ trong sáng chế, nhãn hiệu, bản quyền để tránh các tranh chấp, phục vụ mục đích kinh doanh và phát triển.



Previous Post Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư theo Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVIPA FTAs thế hệ mới không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ mà còn mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với cả đầu tư. Phần lớn các FTAs này cũng bao gồm các nguyên tắc tự do hoá đầu tư và bảo hộ nhà đầu tư thông qua việc quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư (ISDS). Hai Hiệp định đáng chú ý thời gian gần đây là Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có chương 9 về Đầu tư có hiệu lực từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 tại Việt Nam và Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) (được tách ra từ Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Liên minh châu Âu – EVFTA) đang đợi tất cả các quốc gia thành viên phê chuẩn trước khi có hiệu lực. Đầu tiên, về nguyên tắc minh bạch trong giải quyết tranh chấp, CPTPP và EVIPA đều có các điều khoản hoàn thiện tính minh bạch của quá trình tố tụng. Theo đó tất cả các tài liệu (được đệ trình bởi các bên, quyết định của hội đồng trọng tài) sẽ được công khai, trừ các tài liệu bảo mật. Các phiên điều trần sẽ được thực hiện công khai cho các bên có liên quan có thể tham dự. EVIPA đã áp dụng Quy tắc minh bạch UNCITRAL trong khi CPTPP không áp dụng Quy tắc này mà chỉ áp dụng một số quy định tại Điều 9.24 Hiệp định (Điều 9.24 CPTPP, Điều 3.46 EVIPA). Thứ hai, EVIPA đã thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực, khác với cơ chế vụ việc trong CPTPP. Theo EVIPA, Hội đồng xét xử sẽ bao gồm hai cơ quan: Hội đồng xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm. Hiệp định EVIPA đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam quy định cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực trong một Hiệp định bảo hộ đầu tư của Việt Nam. Thứ ba là phán quyết của hội đồng xét xử. Theo EVIPA, phán quyết cuối cùng sẽ được các bên tuân thủ, không kháng cáo, rà soát, bãi bỏ, huỷ bỏ hay bất kỳ biện pháp sửa đổi nào. Việt Nam được gia hạn 5 năm tính từ khi Hiệp định có hiệu lực hoặc thời gian dài hơn do Ủy ban thương mại quyết định. Trong thời gian đó, nếu Việt Nam là bị đơn thì việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài sẽ tuân theo Công ước New York 1958 (Điều 3.57). Hết thời hạn 5 năm, việc thực thi phán quyết theo cơ chế Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước). Biện pháp bảo hộ ngoại giao không được phép áp dụng trừ trường hợp một bên không thực thi phán quyết cuối cùng của trọng tài (Điều 3.58). Trong khi đó, theo Điều 9.29, CPTPP vẫn cho phép khả năng sửa đổi, hủy bỏ phán quyết. CPTPP có nhiều cơ chế thực thi hơn, bao gồm cả Công ước ICSID (không cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước), Công ước New York năm 1958 và Công ước liên châu Mỹ (cần thông qua các thủ tục công nhận và cho thi hành trong nước). Cuối cùng, cả EVIPA và CPTPP đều tăng tính độc lập, vô tư và chất lượng của trọng tài hoặc thành viên của hội đồng khi ban hành bộ quy tắc ứng xử. Trong EVIPA, bộ quy tắc ứng xử này được quy định cụ thể trong Phụ lục 11 trong khi với CPTPP, bộ quy tắc này không được quy định nhưng sẽ được bổ sung hướng dẫn sau đó bởi các bên ký kết tr Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư theo Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVIPA - Công Ty Luật TNHH ANT

post written by:

Related Posts

0 nhận xét: